image banner
Sản xuất vụ đông theo hướng 'nông nghiệp công nghiệp' để khai mở thị trường
Ngành trồng trọt xác định vụ đông là trụ cột, lấy thị trường nội địa làm nền tảng, đồng thời từng bước mở rộng xuất khẩu, sản xuất theo hướng “nông nghiệp công nghiệp”.

Trong hai ngày 22 - 23/12, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường và Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng tổ chức Diễn đàn Kết nối nông sản vùng Đồng bằng sông Hồng, hướng tới thị trường Tết. Diễn đàn được thiết kế như một không gian trao đổi trực tiếp, tập trung tháo gỡ bài toán tiêu thụ nông sản vụ đông trong bối cảnh nguồn cung lớn, thời gian thu hoạch ngắn và áp lực thị trường tăng cao vào dịp cuối năm.

Diễn đàn được tổ chức với mục tiêu kết nối lại chuỗi giá trị nông sản vụ đông theo hướng hiệu quả và bền vững hơn. Thông qua việc tăng cường liên kết giữa vùng sản xuất với nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp phân phối, chương trình hướng tới giảm chi phí sản xuất, hạn chế thất thoát sau thu hoạch, đồng thời nâng cao hiệu quả lưu thông hàng hóa.

Coi vụ đông là trụ cột

Khéo lại sự kiện, bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đánh giá, diễn đàn phản ánh khá đầy đủ thực tiễn sản xuất, tiêu thụ nông sản vụ đông, đồng thời thể hiện rõ sự chuyển biến trong tư duy của nông dân và doanh nghiệp theo hướng thị trường, chất lượng và phân khúc cao.

Theo đại diện cơ quan quản lý của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, nếu như trước đây các diễn đàn thường xoay quanh nỗi lo “được mùa rớt giá”, thì năm nay phần lớn câu hỏi tập trung vào cách sản xuất tốt hơn, đáp ứng yêu cầu của thị trường và nâng cao giá trị sản phẩm, đây là tín hiệu rất tích cực đối với cơ quan quản lý.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-121412_551

Bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật phát biểu kết thúc diễn đàn.

Đánh giá chung vụ đông năm nay ở khu vực phía Bắc, bà Hương cho biết diện tích gieo trồng đạt khoảng 380.000 ha, trong bối cảnh dư địa đất đai còn lớn, và định hướng của ngành là xác lập cây vụ đông như một vụ sản xuất chính, góp phần tăng giá trị trên đơn vị diện tích, nâng thu nhập cho nông dân và xây dựng thương hiệu nông sản địa phương.

Thị trường tiêu thụ hiện cơ bản ổn định, trọng tâm vẫn là thị trường nội địa tại các đô thị lớn, khu công nghiệp, song nhu cầu xuất khẩu cũng đang gia tăng, trong khi khâu chế biến, bảo quản sau thu hoạch mới ở giai đoạn ban đầu cần tiếp tục đầu tư.

Bà Hương thẳng thắn chỉ ra những hạn chế lớn của sản xuất vụ đông hiện nay như thời gian sinh trưởng ngắn, thu hoạch tập trung dễ gây dồn hàng, đất đai còn manh mún, khó tổ chức vùng nguyên liệu lớn, cơ giới hóa và áp dụng đồng bộ quy trình kỹ thuật còn hạn chế, giống rau phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu và rủi ro thị trường vẫn hiện hữu.

Trên cơ sở đó, ngành trồng trọt xác định tiếp tục coi vụ đông là trụ cột, lấy thị trường nội địa làm nền tảng, đồng thời từng bước mở rộng xuất khẩu, hướng sản xuất theo hướng “nông nghiệp công nghiệp”, đồng bộ về chất lượng, mẫu mã, an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật, kéo giãn thời gian thu hoạch để giảm rủi ro thị trường.

Sản xuất cà rốt vụ đông ở Hải Phòng.

Sản xuất cà rốt vụ đông ở Hải Phòng.

Để phục vụ tốt thị trường Tết, bà Hương lưu ý cần bám sát thời vụ, điều chỉnh diện tích linh hoạt theo tín hiệu thị trường, rà soát cơ cấu cây trồng theo nhóm thu hoạch trước, cận và sau Tết, tăng cường sản xuất an toàn, chủ động sơ chế, bảo quản tại chỗ và đẩy mạnh kết nối thị trường thông qua các diễn đàn, đặc biệt hướng tới các thị trường có Tết âm lịch như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore.

Bà Hương cũng nhấn mạnh vai trò điều tiết của chính quyền địa phương trong cung cấp thông tin thị trường, kỹ thuật, kết nối tiêu thụ và phối hợp với các cơ quan liên quan. Về chính sách, Cục đang tham mưu xây dựng Nghị định về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói theo hướng phân cấp mạnh về địa phương, đồng thời thúc đẩy chương trình “sức khỏe đất”, chia sẻ dữ liệu đất đai với nông dân và doanh nghiệp để sử dụng phân bón hiệu quả hơn.

Bà Nguyễn Thị Thu Hương khẳng định Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật sẽ tiếp tục đồng hành cùng Hải Phòng và các địa phương miền Bắc, hỗ trợ nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy sản xuất vụ đông phát triển cả về quy mô, giá trị và tính bền vững.

Đất khỏe - vùng trồng chuẩn mở lối xuất khẩu bền vững

Theo bà Lương Thị Kiểm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng, thành phố hiện sở hữu diện tích cây vụ đông lớn. Tuy nhiên, việc canh tác vẫn còn dựa nhiều vào kinh nghiệm, nông dân sử dụng giống nhiều lần và chưa xây dựng được thương hiệu sản phẩm. Do thiếu đánh giá tổng thể về tồn dư dinh dưỡng, nhiều hộ vẫn có xu hướng bón lân với lượng lớn qua nhiều năm, dẫn tới nguy cơ mất cân đối dinh dưỡng đất.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-120741_127

Bà Lương Thị Kiểm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng.

Trước thực tế đó, việc đánh giá “sức khỏe đất” và điều chỉnh quy trình chăm bón theo từng vùng là hết sức cần thiết. “Cùng với đó, bà con phải ý thức được việc kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Nếu không làm tốt khâu sản xuất thì mọi nỗ lực quảng bá hay xúc tiến thương mại đều không mang lại hiệu quả.

“Ngành Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng xác định tổ chức sản xuất là trách nhiệm chung của người dân, doanh nghiệp và chính quyền địa phương. Chúng tôi kêu gọi các doanh nghiệp về đầu tư, liên kết với nông dân, đồng thời phối hợp chặt chẽ với cơ quan chuyên môn để quy hoạch vùng trồng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-120807_33

Trong bối cảnh thị trường Hàn Quốc tăng cường kiểm soát, 100% lô hàng xuất khẩu đều phải kiểm tra dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, việc giám sát vùng trồng từ sớm, trước thu hoạch ít nhất 1-2 tháng, là yêu cầu bắt buộc. Vì vậy, nâng cao ý thức sản xuất, xây dựng sản phẩm chất lượng cao ngay từ đầu chính là nền tảng để nông sản Hải Phòng phát triển bền vững, nâng cao giá trị và có những mùa vụ thực sự bội thu”, lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh.

Mở lối đi lớn cho nông sản đặc trưng địa phương

Chia sẻ tại diễn đàn, người dân xã Nam Sơn, TP. Hải Phòng cho biết, từ bao đời nay, sản xuất nông nghiệp tại địa phương gắn liền với cây hành, cây tỏi, là nghề truyền thống được cha ông gây dựng và gìn giữ. Nhờ điều kiện thổ nhưỡng và kinh nghiệm canh tác tích lũy qua nhiều thế hệ, hành, tỏi Nam Sơn có hương vị cay thơm đặc trưng, chất lượng được người tiêu dùng tin tưởng.

Tuy nhiên, đằng sau niềm tự hào ấy vẫn còn không ít trăn trở được người dân thẳng thắn nhìn nhận việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất hành, tỏi sạch còn hạn chế. Cùng với đó, đầu ra sản phẩm chưa ổn định, tình trạng “được mùa mất giá, được giá mất mùa” vẫn lặp lại. Thị trường tiêu thụ chủ yếu dựa vào các kênh truyền thống, mang tính tự phát, thiếu liên kết bền vững.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-114842_367

Ông Trần Quang Tuyến, đại diện HTX trồng táo muối Bàng La ở Nam Đồ Sơn chia sẻ trăn trở về việc đưa sản phẩm đặc trưng của địa phương đi xa.

Cùng chung nỗi lo về đầu ra, ông Trần Quang Tuyến, phường Nam Đồ Sơn, TP. Hải Phòng chia sẻ câu chuyện của cây táo Bàng La, là loại quả đặc sản được trồng trên vùng đất muối lâu năm. Nhờ thổ nhưỡng đặc biệt, táo Bàng La mang trong mình hương vị rất riêng, hòa quyện đủ vị chua, mặn, ngọt, chát, với sản lượng khoảng 30.000 tấn mỗi năm.

Dù vậy, sản phẩm hiện mới chủ yếu tiêu thụ tại các chợ truyền thống ở một số tỉnh phía Bắc, chưa thể tiếp cận những thị trường tiềm năng hơn. Điều mà người trồng táo mong mỏi là được kết nối, xúc tiến thương mại để đưa đặc sản quê hương đi xa hơn.

Ở góc độ quản lý địa phương, bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Phó Chủ tịch xã Nam An Phụ, TP. Hải Phòng cho biết, mục tiêu của địa phương là đưa các sản phẩm nông sản, trước hết là hành, tỏi, từng bước vào hệ thống siêu thị lớn, tiến tới xuất khẩu. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, rất cần sự đồng hành của doanh nghiệp trong liên kết sản xuất - tiêu thụ.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-114944_533

Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Phó Chủ tịch xã Nam An Phụ, TP. Hải Phòng.

“Với người dân nơi đây, ‘tấc đất là tấc vàng’, nên họ kỳ vọng từ những mô hình thành công sẽ từng bước xây dựng được mã số vùng trồng, hình thành thương hiệu hành, tỏi Nam An Phụ, qua đó nâng tầm giá trị nông sản địa phương”, bà Nhàn chia sẻ.

Ấn Độ và một số thị trường châu Á cần nhập hành số lượng lớn

Theo ông Bùi Kiên Cường, đại diện Công ty cổ phần Phát triển nông nghiệp Vàng, nhu cầu nhập khẩu hành của Ấn Độ và một số thị trường châu Á rất lớn, song hiện tượng “được mùa, mất giá” vẫn lặp lại ở nhiều vùng trồng. Nguyên nhân không nằm ở sản lượng mà ở chất lượng, cụ thể là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (MRL) vượt ngưỡng.

Đây là tiêu chí bắt buộc trong xuất khẩu, nhưng lại đang là điểm yếu phổ biến trong sản xuất hành. Cây hành được đánh giá là mẫn cảm, yêu cầu kỹ thuật chăm sóc cao và quy trình canh tác nghiêm ngặt hơn nhiều loại cây trồng khác.
ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-112645_636

Tuy thị trường xuất khẩu rộng mở nhưng ông Bùi Kiên Cường, đại diện Công ty cổ phần Phát triển nông nghiệp Vàng vẫn bày tỏ nỗi lo dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên nông sản.

Để đạt chuẩn xuất khẩu, không thể sử dụng các loại thuốc vốn quen dùng cho lúa hay hoa màu, mà phải áp dụng các loại thuốc đặc thù, phù hợp riêng cho cây hành. Việc xây dựng được quy trình đáp ứng yêu cầu này, theo ông Cường, là kết quả của quá trình nghiên cứu, thử nghiệm kéo dài và tốn nhiều công sức của doanh nghiệp và hợp tác xã.

Tuy nhiên, thách thức lớn nằm ở khâu tổ chức sản xuất trên diện rộng. Người trồng hành thường ưu tiên những biện pháp dễ áp dụng, chi phí thấp và mang lại lợi ích kinh tế trước mắt. Trong khi đó, các quy trình đạt chuẩn xuất khẩu đòi hỏi sự tuân thủ đồng bộ, từ vật tư đầu vào đến kỹ thuật canh tác, điều mà sản xuất manh mún, thiếu liên kết khó có thể đáp ứng.

Từ thực tế này, ông Cường cho rằng việc đẩy mạnh kết nối thị trường cần song hành với tổ chức lại sản xuất. Chỉ khi kiểm soát được dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và chuẩn hóa quy trình trên diện tích đủ lớn, cây hành Việt Nam mới có thể khai thác hiệu quả các thị trường tiềm năng và thoát khỏi vòng luẩn quẩn “được mùa, mất giá”.

Trung Quốc, Đài Loan mất mùa cà rốt và cơ hội của Việt Nam

Theo bà Ngô Thị Thu Hồng, Giám đốc Công ty cổ phần AMEII Việt Nam đang tập trung bao tiêu và xuất khẩu nhiều loại cây vụ đông, trọng tâm là cà rốt và bắp cải. Trung bình, công ty đưa khoảng 80-100 container cà rốt vào Hàn Quốc mỗi năm. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng mở rộng liên kết tiêu thụ các mặt hàng như ớt, cải thảo, xà lách, phục vụ nhu cầu làm kim chi của khách hàng.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-112058_45

Bà Ngô Thị Thu Hồng, Giám đốc Công ty cổ phần AMEII Việt Nam.

“Năm nay, hai đối thủ cạnh tranh chính là Trung Quốc và Đài Loan gặp khó khăn do mất mùa và thu hoạch chậm, vì vậy AMEII đã liên kết với 6-8 xưởng để tăng cường sản xuất cà rốt. Chúng tôi cũng mong muốn các cơ sở này tiếp tục nâng cấp quy mô để tạo dựng niềm tin tuyệt đối với đối tác quốc tế”, Giám đốc AMEII Việt Nam cho biết.

AMEII xác định, xây dựng và quản lý vùng nguyên liệu, cùng sự đồng hành của cơ quan nhà nước là điều kiện tiên quyết để xuất khẩu bền vững, hướng đến các vùng trồng đạt chuẩn như VietGAP, GlobalGAP.

Bên cạnh xuất khẩu nông sản tươi, doanh nghiệp mong muốn các nhà khoa học nghiên cứu về công nghệ chế biến và bảo quản sâu nhằm nâng cao giá trị và kéo dài thời gian xuất khẩu quanh năm. “Thị trường Hàn Quốc hiện đã áp dụng các tiêu chuẩn khắt khe hơn khi tiến hành kiểm soát toàn bộ các lô hàng nhập khẩu.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-112202_356

Vì vậy, bà con nông dân cần đồng hành lâu dài và tuân thủ tuyệt đối các quy định về an toàn thực phẩm. Để kiểm soát chất lượng, chuyên gia kĩ thuật AMEII luôn đồng hành cùng bà con HTX và cán bộ địa phương ít nhất 30-45 ngày trước thu hoạch để theo dõi, lấy mẫu kiểm nghiệm khắt khe. Đồng thời, chúng tôi mong muốn có các chính sách ưu đãi về chi phí logistics, đặc biệt tại khu vực Hải Phòng để tăng sức cạnh tranh cho nông sản Việt”, bà cho biết.

Ngành trồng trọt giữ đà mở rộng thị trường

Bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cho biết với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước, công tác kiểm soát sản xuất và truy xuất nguồn gốc đang được đặt ra không chỉ đối với nông sản xuất khẩu hay phân khúc thị trường cao cấp, mà cả đối với thị trường nội địa.

Theo bà, Bộ đang phối hợp rà soát, sửa đổi và bổ sung một số quy định của Luật Trồng trọt, trong đó có Điều 64 liên quan đến mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói, nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn.

Sau khi các quy định này có hiệu lực, việc xây dựng và quản lý mã số vùng trồng sẽ được triển khai bài bản hơn, làm nền tảng cho xuất khẩu chính ngạch, đồng thời nâng cao chất lượng và tính minh bạch của nông sản tiêu thụ trong nước.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-110809_271
Bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật chia sẻ về các thị trường xuất khẩu nông sản.


Bà Hương cũng cho biết năm nay nhiều nghị định thư xuất khẩu sang Trung Quốc tiếp tục được chuẩn hóa đối với các mặt hàng như chuối, dưa hấu, mít, trong khi thị trường Australia đã chính thức mở cửa cho bưởi Việt Nam. Với đà này, ngành trồng trọt sẽ tiếp tục mở rộng thị trường.

Bà hoan nghênh sự tham gia chủ động của doanh nghiệp và địa phương, đồng thời khẳng định Bộ sẵn sàng đồng hành, hỗ trợ hợp tác xã và nông dân trong quá trình tổ chức sản xuất. Riêng đối với khâu bảo quản và chế biến sau thu hoạch, bà Hương cho biết Bộ có kế hoạch hợp nhất Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch vào Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, coi đây là bước đi quan trọng nhằm tăng cường năng lực nghiên cứu, gắn chặt hơn giữa sản xuất và bảo quản, chế biến, qua đó nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản.

AI xóa rào cản, mở cửa thị trường toàn cầu cho nông sản Việt

Chia sẻ những góc nhìn và kinh nghiệm thực tiễn về ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và chuyển đổi số trong quảng bá, xúc tiến thương mại sản phẩm nông sản, ông Dương Thanh Sơn, Phó Chủ tịch Công ty Cổ phần Công nghệ và Đào tạo ABM, phân tích, với bối cảnh kinh tế trong kỷ nguyên AI hiện nay, tốc độ đổi mới công nghệ đã được rút ngắn gấp nhiều lần, qua đó làm thay đổi sâu sắc cấu trúc thị trường và phương thức cạnh tranh.

Theo đó, AI đang xóa nhòa rào cản địa lý, ngôn ngữ, mở ra cơ hội để các doanh nghiệp nhỏ, linh hoạt tiếp cận thị trường toàn cầu ngay từ giai đoạn đầu, nếu biết khai thác dữ liệu và công nghệ. Ngược lại, những mô hình kinh doanh truyền thống đang có nguy cơ nhanh chóng bị đào thải nếu không kịp thích ứng và tái đào tạo nguồn nhân lực.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-102248_814

Ông Dương Thanh Sơn, Phó Chủ tịch Công ty Cổ phần Công nghệ và Đào tạo ABM.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, AI được nhìn nhận là công cụ mang lại lợi ích đột phá, giúp tăng hiệu suất, giảm chi phí và mở rộng khả năng tiếp cận thị trường. AI có thể tham gia toàn bộ chuỗi quảng bá và tiêu thụ nông sản, từ sản xuất nội dung truyền thông, tìm kiếm và chăm sóc khách hàng tự động, đến chốt đơn, quản lý đơn hàng, tồn kho và kết nối với hệ thống tài chính - kế toán.

Dữ liệu được xác định là tài sản cốt lõi, còn AI đóng vai trò như “nhân viên số” làm việc liên tục 24/7, đa ngôn ngữ, có khả năng tư vấn, phân tích hành vi khách hàng và tối ưu hoạt động bán hàng.

Từ thực tiễn đó, ông Dương Thanh Sơn đề xuất các mô hình ứng dụng AI phù hợp với doanh nghiệp nông nghiệp, hướng tới mục tiêu mỗi nhân sự hoặc doanh nghiệp có thể gia tăng hiệu suất nhiều lần nếu áp dụng đúng cách.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-102540_335

Yếu tố then chốt được nhấn mạnh là nâng cao nhận thức và triển khai đào tạo bài bản, mang tính thực chiến, liên tục cho đội ngũ lãnh đạo và doanh nghiệp, theo phương châm “học đến đâu, áp dụng ngay đến đó”.

Về giải pháp, ông Dương Thanh Sơn kiến nghị đẩy mạnh đào tạo tư duy số và kỹ năng ứng dụng AI; phát triển các trợ lý AI cá nhân hóa, tích hợp quản trị nội bộ, marketing, bán hàng và chăm sóc khách hàng; đồng thời nâng cao năng lực ứng dụng AI của chính quyền nhằm tạo sự đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp. Cách tiếp cận được khuyến nghị là triển khai thí điểm ở quy mô phù hợp, đánh giá hiệu quả, hoàn thiện mô hình và nhân rộng.

Nông sản Việt giữ vai trò chủ lực trong các siêu thị

Đây là xu thế đang hình thành rõ nét tại các hệ thống phân phối hiện đại, đặc biệt ở nhóm thực phẩm tươi sống có nguồn gốc rõ ràng và đáp ứng yêu cầu an toàn thực phẩm, theo bà Nguyễn Thị Kim Dung, Giám đốc Siêu thị Saigon Co.op Hà Nội.

Bà Dung cho biết, các mặt hàng nông sản trong nước hiện chiếm tỷ trọng chính tại siêu thị, từ rau củ, trái cây đến thực phẩm chế biến, nhờ lợi thế về độ tươi, khả năng truy xuất và sự phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng đô thị.

Theo bà, thị trường quà Tết đang chứng kiến sự dịch chuyển rõ rệt trong vài năm gần đây. Nếu trước đây yếu tố hình thức, mẫu mã được đặt lên hàng đầu thì nay người tiêu dùng quan tâm nhiều hơn đến giá trị sử dụng và lợi ích cho sức khỏe.

ewtr

Bà Nguyễn Thị Kim Dung, Giám đốc Siêu thị Saigon Co.op Hà Nội.

Các giỏ quà, hộp quà có xu hướng ưu tiên nông sản an toàn, sản phẩm có chứng nhận chất lượng, ít đường, ít chất béo hoặc có nguồn gốc tự nhiên, thay vì chỉ tập trung vào bao bì bắt mắt. Từ thực tế sức mua và phản hồi của khách hàng, Saigon Co.op Hà Nội dự báo mùa Tết 2026 sẽ tiếp tục đẩy mạnh nhóm quà Tết và hàng hóa thiết yếu.

Các sản phẩm phục vụ bữa ăn hằng ngày, thực phẩm an toàn, nông sản trong nước và hàng tiêu dùng thiết yếu được kỳ vọng sẽ tăng tỷ trọng, phản ánh xu hướng tiêu dùng tiết kiệm hơn nhưng vẫn chú trọng chất lượng và sức khỏe. Sự thay đổi này không chỉ mở ra cơ hội cho nông sản Việt trong kênh bán lẻ hiện đại, mà còn đặt ra yêu cầu cao hơn về kiểm soát chất lượng, minh bạch nguồn gốc và khả năng cung ứng ổn định, nhất là trong giai đoạn cao điểm Tết.

Kiến nghị về cơ chế hỗ trợ vốn ưu đãi cho hạ tầng sau thu hoạch

Chia sẻ tại diễn đàn, ông Hồ Việt Hoàng, Giám đốc HTX Nông nghiệp Hoàng Nam Phát, cho biết HTX xác định sản xuất nông sản sạch gắn với chuỗi liên kết tiêu thụ là hướng đi cốt lõi để nâng cao giá trị cây vụ đông và tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

HTX hiện là một trong những đơn vị tiên phong trong sản xuất, chế biến và cung ứng nông sản an toàn, với hệ thống khách hàng trải rộng từ siêu thị, trường học, bếp ăn tập thể, chợ đầu mối trong nước đến các đối tác hướng xuất khẩu.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-095910_548

Ông Hồ Việt Hoàng, Giám đốc HTX Hoàng Nam Phát, xã Đức Chính, TP. Hải Phòng phát biểu tại diễn đàn.

Theo ông Hoàng, nền tảng quan trọng nhất để xây dựng uy tín thị trường là cam kết “4 không” trong sản xuất, gồm không hóa chất tồn dư, không sử dụng phân bón hóa học vượt mức, không biến đổi gen và không dùng thuốc bảo vệ thực vật trái phép.

Cam kết này được cụ thể hóa bằng việc HTX kiểm soát chặt chẽ toàn bộ quy trình từ gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch đến sơ chế, đóng gói và vận chuyển, qua đó đảm bảo chất lượng đồng đều và khả năng truy xuất nguồn gốc.

HTX Hoàng Nam Phát hiện cung ứng đa dạng các nhóm sản phẩm, từ rau củ quả vụ đông như bí, cà, cải, su hào, bắp cải, khoai tây, súp lơ đến các loại dưa, vải, bưởi và trái cây theo mùa.

Việc đa dạng hóa sản phẩm giúp HTX chủ động thích ứng với biến động thị trường, giảm phụ thuộc vào một loại cây trồng hay một kênh tiêu thụ. Song song đó, HTX áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng như HACCP, QS-9000, ISO 14001, sẵn sàng đáp ứng các đơn hàng từ nhỏ đến lớn theo yêu cầu của đối tác.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-095953_665

Từ thực tiễn hoạt động, ông Hoàng nhấn mạnh vai trò trung tâm của HTX trong chuỗi liên kết, vừa điều phối sản xuất, vừa bao tiêu sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật và cung ứng đầu vào đạt chuẩn cho xã viên.

Bên cạnh kết quả đạt được, ông Hồ Việt Hoàng thẳng thắn chỉ ra những thách thức lớn như chi phí đầu tư kho lạnh, sơ chế và đóng gói cao, rủi ro thời tiết - sâu bệnh và áp lực cạnh tranh về giá, trong khi yêu cầu của thị trường ngày càng khắt khe về chứng nhận và truy xuất nguồn gốc.

Từ đó, HTX kiến nghị cần có cơ chế hỗ trợ vốn ưu đãi cho hạ tầng sau thu hoạch, tăng cường kết nối với hệ thống phân phối lớn, đẩy mạnh xúc tiến thương mại và ứng dụng công nghệ số, truy xuất nguồn gốc, nông nghiệp thông minh nhằm nâng cao hiệu quả và giá trị bền vững cho chuỗi nông sản vụ đông.

Giải pháp phân bón thế hệ mới cho nông nghiệp bền vững

Theo các nghiên cứu của Viện Thổ nhưỡng - Nông hóa, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, hiệu quả sử dụng phân bón truyền thống hiện nay vẫn còn thấp, với tỷ lệ hấp thu chỉ đạt khoảng 30-45% đối với đạm, 45-50% với lân và 50-60% với kali. Phần dinh dưỡng thất thoát không chỉ làm gia tăng chi phí sản xuất mà còn gây ô nhiễm môi trường, phát thải khí nhà kính, đặc biệt là khí nitơ monoxit.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-094900_349

Ông Nguyễn Quốc An, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao trình bày về phân bón thế hệ mới cho rau màu vụ đông.

Trước thực trạng đó, Công ty Supe Lâm Thao định hướng phát triển các dòng phân bón thế hệ mới như một giải pháp đầu tư thông minh. Ông Nguyễn Quốc An, Phó Tổng Giám đốc Công ty Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao, cho biết các dòng này được xây dựng trên ba hướng tiếp cận chủ đạo: tối ưu hóa dinh dưỡng; cải thiện đất và hệ sinh thái vi sinh (dòng phân NPK-S và NPK-S vi sinh).

Thực tiễn cho thấy, phân bón thế hệ mới của Supe Lâm Thao mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Trước hết là chất lượng nông sản tăng, với màu sắc đẹp, vị ngọt đậm, củ quả chắc, đáp ứng yêu cầu của thị trường cao cấp, siêu thị và xuất khẩu. Hiệu suất sử dụng tăng 10-20% cho phép giảm 15-30% lượng phân bón, góp phần tiết kiệm chi phí mua vật tư, vận chuyển, công lao động và tưới tiêu.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-095007_756
 

Nhờ đó, lợi nhuận của người sản xuất có thể tăng từ 7-15%. Quan trọng hơn, các sản phẩm hữu cơ - khoáng - vi sinh còn là khoản đầu tư dài hạn cho đất đai, giúp duy trì độ phì nhiêu, ổn định năng suất và tăng khả năng chống chịu trước tác động của biến đổi khí hậu.

“Để đưa giải pháp vào thực tiễn, Supe Lâm Thao triển khai mô hình hợp tác ‘3 Cùng’: cùng đầu tư; cùng đào tạo; cùng tiêu thụ. Đầu tư vào phân bón thế hệ mới cũng là đầu tư vào thương hiệu nông sản xanh của vùng Đồng bằng sông Hồng.

Cần xây dựng trung tâm sơ chế, chế biến, bảo quản nông sản quy mô vùng

Theo ông Lê Thái Nghiệp, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TP. Hải Phòng, vụ đông 2025-2026 toàn thành phố gieo trồng khoảng 29.500 ha cây trồng các loại, tăng 450 ha so với vụ đông năm trước.

Trong đó, diện tích rau đạt khoảng 22.700 ha, cho sản lượng ước 700.000 tấn; ngô 1.700 ha, sản lượng 12.500 tấn; các cây màu khác hơn 5.100 ha, sản lượng khoảng 60.000 tấn. Khoảng 30% sản lượng rau phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa, trên 70% cung ứng cho các tỉnh, thành phố khác và xuất khẩu.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-092711_114

Ông Lê Thái Nghiệp, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TP. Hải Phòng báo cáo về hoạt động sản xuất vụ đông của thành phố.

Riêng một số sản phẩm như cà rốt, tỷ lệ xuất khẩu chiếm tới hơn 80% sản lượng. Sản xuất rau vụ đông của Hải Phòng hình thành rõ các vùng hàng hóa tập trung. Nổi bật là vùng hành, tỏi với diện tích khoảng 7.100 ha, sản lượng dự kiến 120.000-130.000 tấn, giá trị sản xuất đạt 320-470 triệu đồng/ha, lãi từ 210-355 triệu đồng/ha.

Hành, tỏi được bảo quản tại nông hộ, tiêu thụ quanh năm, giảm áp lực đầu ra khi thu hoạch. Nhiều sản phẩm đã được chứng nhận VietGAP, nhãn hiệu tập thể, tiêu thụ chủ yếu trong nước và một phần sấy khô xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan.

Vùng cà rốt gieo trồng khoảng 1.300 ha, sản lượng 65.000-70.000 tấn, tập trung tại các địa phương như Tuệ Tĩnh, Thái Tân, An Phú, Chí Linh. Khoảng 80% sản lượng được bảo quản lạnh xuất khẩu sang Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia và Trung Đông. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã đã tham gia liên kết đầu tư, bao tiêu sản phẩm, góp phần nâng cao giá trị và tính ổn định cho vùng trồng.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-092831_66

Sản lượng hành, tỏi vụ đông 2025 của Hải Phòng dự kiến 120.000-130.000 tấn. Ảnh: Tùng Đinh.

Các vùng su hào, bắp cải, súp lơ có tổng diện tích khoảng 5.200 ha, sản lượng 180.000-200.000 tấn, tiêu thụ chủ yếu tại Hà Nội, TP.HCM và các tỉnh lân cận, một phần xuất khẩu... Mặc dù đầu vụ đông gặp nhiều bất lợi do bão chồng bão, mưa kéo dài, song nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của ngành nông nghiệp và chính quyền địa phương, vụ đông 2025-2026 được đánh giá thắng lợi toàn diện, đạt giá trị cao nhất trong 5 năm gần đây. Nhiều loại rau tăng giá gấp 2-3 lần so với cùng kỳ, thị trường tiêu thụ thuận lợi, vừa được mùa, vừa được giá.

Tuy nhiên, sản xuất vụ đông vẫn đối mặt không ít thách thức. Liên kết bao tiêu còn hạn chế, tiêu thụ chủ yếu qua thương lái, hệ thống kho lạnh và chế biến sau thu hoạch còn thiếu, chi phí sản xuất cao, cơ giới hóa chưa đồng bộ.

Trước thực tế đó, Hải Phòng kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường hỗ trợ xây dựng trung tâm sơ chế, chế biến, bảo quản nông sản quy mô vùng; tăng cường xúc tiến thương mại, kết nối doanh nghiệp xuất khẩu, thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, hướng tới sản xuất vụ đông bền vững, giá trị gia tăng cao.

Trục chính sách mới cho cây vụ đông

TP Hải Phòng bước vào vụ đông năm nay bằng một tâm thế mới, với 2 nghị quyết mới được ban hành, theo chia sẻ của bà Lương Thị Kiểm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường. Theo bà, đây là cách thành phố tạo khung pháp lý và nguồn lực ổn định để sản xuất vụ đông trở thành một cấu phần bền vững trong cơ cấu nông nghiệp.

Đầu tiên là Nghị quyết 27/2025/NQ-HĐND, trọng tâm là hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất trên đất trồng lúa, từ giống, kỹ thuật, mô hình trình diễn đến cải tạo đất và hạ tầng phục vụ sản xuất. Với cây vụ đông, chính sách này giúp nông dân giảm chi phí đầu vào, tăng khả năng áp dụng tiến bộ kỹ thuật và nâng cao hiệu quả sử dụng đất sau thu hoạch lúa, vốn là “nút thắt” lâu nay trong sản xuất vụ đông ở nhiều địa phương.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-090401_973

Bà Lương Thị Kiểm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng phát biểu mở đầu diễn đàn. Ảnh: Tùng Đinh.

Tiếp đó là Nghị quyết 51/2025/NQ-HĐND, ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung giai đoạn 2026–2030. Nghị quyết này mở rộng không gian cho cây vụ đông bằng cách thúc đẩy sản xuất theo vùng, theo chuỗi, gắn nông dân với hợp tác xã và doanh nghiệp tiêu thụ. Trước đó, Hải Phòng đã ban hành Nghị quyết số 19/2021/NQ-HĐND, quy định nội dung chi và mức hỗ trợ cho các hoạt động khuyến nông trên địa bàn thành phố.

Nghị quyết này đặt ra các quy định chi bồi dưỡng, tập huấn, tuyên truyền, xây dựng và nhân rộng mô hình trình diễn, hỗ trợ giống, vật tư và ứng dụng kỹ thuật mới nhằm nâng cao năng lực sản xuất của nông dân và tổ chức sản xuất trong nông nghiệp.

ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-090440_703
Các đại biểu tham dự diễn đàn.

Theo bà Kiểm, đây là những nền tảng để cây vụ đông không chỉ dừng ở “vụ phụ”, mà trở thành nguồn hàng hóa ổn định, có đầu ra và giá trị gia tăng cao hơn. Vụ đông 2025-2026, Hải Phòng gieo trồng khoảng 29.500 ha cây vụ đông, tăng 450 ha so với năm trước; trong đó rau các loại chiếm 22.700 ha với sản lượng khoảng 700.000 tấn.

Khoảng 30% sản lượng phục vụ tiêu dùng nội địa, hơn 70% tiêu thụ ngoài thành phố và xuất khẩu, riêng một số sản phẩm như cà rốt có tới trên 80% sản lượng xuất khẩu.

Theo: https://nongnghiepmoitruong.vn/ket-noi-nong-san-dong-bang-song-hong-go-ap-luc-tieu-thu-vu-dong-d790815.html

Nguyễn Ánh Ngọc
QR Code
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
  image advertisement
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tháng: 0
  • Tất cả: 0